TÌM HIỂU VỀ BỆNH THỦY ĐẬU
Thủy đậu là bệnh truyền nhiễm với biểu hiện điển hình là các nốt mụn nước phỏng rộp chứa dịch viêm xuất hiện trên da và niêm mạc toàn thân. Thủy đậu có thể lưu hành ở mọi nơi trên toàn cầu và xuất hiện ở mọi đối tượng bất kể trẻ em hay người lớn. Bệnh có thể gây ra các biến chứng vô cùng nguy hiểm, phải nhập viện điều trị và nguy cơ cao dẫn đến tử vong hoặc để lại di chứng thần kinh, tim mạch, vận động và da liễu nặng nề kéo dài sau khi khỏi bệnh.
Bệnh thủy đậu là gì?
Thủy đậu là bệnh truyền nhiễm cấp tính gây ra tình trạng nhiễm trùng ngoài da với triệu chứng điển hình là các phát ban, mụn nước, phỏng rộp chứa đầy dịch mủ gây ngứa ngáy, vô cùng khó chịu. Bệnh có thể xảy ra ở cả trẻ em và người lớn, bất kỳ đối tượng nào chưa có miễn dịch với thủy đậu do chưa từng mắc bệnh thủy đậu trước đây hoặc chưa tiêm đầy đủ vắc xin ngừa bệnh thủy đậu đều có khả năng lây nhiễm và mắc bệnh.
Theo Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế, bệnh thủy đậu có khả năng lây lan và phát triển vô cùng mạnh mẽ, chúng có thể xuất hiện ở mọi nơi trên toàn thế giới. Ở những quốc gia thuộc vùng khí hậu ôn đới, có ít nhất 90% trẻ dưới 15 tuổi bị mắc thủy đậu và tỷ lệ này ở người lớn thậm chí có thể lên đến 95%.
Tại Việt Nam, theo thống kê của Hội Y học Dự phòng, năm 2016 cả nước ghi nhận được gần 22.000 ca mắc bệnh; năm 2017 tăng 45,9%, chạm mốc 39.000 trường hợp mắc bệnh thủy đậu và vào năm 2018, Việt Nam có hơn 31.000 ca mắc.
Đến thời điểm hiện tại là năm 2023, chỉ riêng 7 tháng đầu năm đã có hơn 4.000 ca bệnh, riêng Hà Nội đã có gần 2.000 ca, tăng gấp 11,5 lần so với cùng kỳ năm 2022. Có thể thấy rằng, dù đã có vắc xin phòng ngừa rất hiệu quả nhưng số lượng ca bệnh vẫn không suy giảm đáng kể qua các năm, cho thấy tỷ lệ bao phủ tiêm chủng vắc xin thủy đậu đang bị sụt giảm, người dân chủ quan, lơ là trong công tác dự phòng bệnh tật.
Theo BS Trương Hữu Khanh – Phó Chủ tịch Liên chi Hội Truyền nhiễm TP.HCM, bất cứ ai cũng có thể mắc thủy đậu, độ tuổi mắc bệnh thủy độ phổ biến nhất là nhóm trẻ em từ 2 – 8 tuổi. Theo tổ chức Dịch vụ Y tế Quốc gia chính phủ Anh (NHS), thủy đậu hay gặp nhất ở trẻ em thuộc nhóm tuổi dưới 10 tuổi.
Tại Việt Nam và các quốc gia nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới khác, mùa thủy đậu thường bắt đầu từ giữa tháng 3 và tháng 5 hàng năm, là giai đoạn thời tiết nóng ẩm, tạo điều kiện cho các tác nhân gây bệnh ngoài môi trường phát triển, lây lan và bùng phát mạnh mẽ trong cộng đồng.
Nguyên nhân bị thủy đậu
Nguyên nhân gây ra bệnh thủy đậu là do virus Varicella Zoster (VZV), cũng là tác nhân gây ra bệnh zona thần kinh (hay còn được gọi là bệnh giời leo) sau khi bệnh thuỷ đậu kết thúc.
1. Virus Varicella-Zoster
VZV là 1 trong 8 loại virus thuộc họ Herpes có khả năng gây bệnh ở người, có khả năng gây ra 2 bệnh cảnh khác nhau là bệnh thủy đậu và bệnh zona thần kinh. Thủy đậu là bệnh lý do đáp ứng miễn dịch tiên phát của người bệnh đối với VZV, trong khi đó zona thần kinh là bệnh lý do đáp ứng miễn dịch từng phần của người bệnh bị nhiễm VZV. VZV khi xâm nhập vào cơ thể có thể nhân lên tại chỗ, gây nhiễm virus huyết tiên phát, sau đó phân tán rất nhanh đến các cơ quan, hệ thần kinh, da,… gây ra bệnh thủy đậu.
VZV có kích thước phân tử rất nhỏ, chỉ khoảng 150 – 200mm nên chúng có khả năng trú ẩn, hoạt động và gây hại ở cấp độ tế bào, sâu trong các tế bào hạch thần kinh cảm giác của người bệnh.
Theo Bộ Y tế (2016), nguồn chứa duy nhất của VZV là cơ thể con người, virus có khả năng tổn tại kém bền ở ngoài cơ thể người, do đó nguồn lây bệnh thủy đậu thông qua tiếp xúc với các đồ vật của người bệnh thường không phổ biến, thay vào đó, nguồn lây bệnh thủy đậu phổ biến hơn cả là người mắc bệnh thủy đậu với khả năng lây lan cực kỳ nhanh chóng trong khoảng 48 giờ trước khi phát ban xuất hiện.
2. Những điều kiện thuận lợi và đường lây nhiễm của virus
Thủy đậu chủ yếu lây truyền thông qua đường hô hấp, khi một người vô tình hít phải những giọt bắn chứa VZV trong không khí của người bệnh khi nói chuyện/ho/hắt hơi/… Một số ít các trường hợp khác, thủy đậu có thể lây lan qua việc tiếp xúc trực tiếp với nốt mụn phỏng rộp trên da của người bệnh, dịch mủ viêm nhiễm có thể chứa virus và lây nhiễm nhanh chóng với những người tiếp xúc với chúng.
Ngoài ra, thủy đậu cũng có thể lây truyền theo chiều dọc từ mẹ sang con trong quá trình mang thai, trong quá trình sinh và sau khi sinh con, gây ra tình trạng thủy đậu sơ sinh vô cùng nguy hiểm.
Bất cứ ai cũng có thể lây nhiễm virus và mắc bệnh thủy đậu. Nguy cơ lây nhiễm VZV và mắc bệnh cao hơn khi một người:
Tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân mắc bệnh thủy đậu hoặc zona thần kinh: VZV có thể lây lan qua đường hô hấp hoặc tiếp xúc trực tiếp với dịch mủ trên vùng da tổn thương do thủy đậu/zona thần kinh. Do đó, việc việc xúc trực tiếp với bệnh nhân mắc thủy đậu/zona thần kinh có nguy cơ cao lây nhiễm VZV, gây ra bệnh thủy đậu.
Trong gia đình có người mắc bệnh thủy đậu: Theo nhiều nghiên cứu, vì khả năng lây nhiễm vô cùng khủng khiếp khi tiếp xúc gần với mầm bệnh nên nguy cơ lây nhiễm VZV trong gia đình là rất cao, thậm chí cao hơn nguy cơ lây nhiễm ở môi trường bệnh viện.
Người bị suy yếu hệ thống miễn dịch: Những người bị suy yếu hệ thống miễn dịch do tuổi tác, bệnh tật, đang điều trị bằng thuốc hoặc các liệu pháp can thiệp gây ức chế hệ miễn dịch, phụ nữ mang thai,… có thể dễ dàng lây nhiễm VZV và mắc bệnh thủy đậu. Hệ thống miễn dịch yếu khiến khả năng chống lại virus kém, tạo điều kiện thuận lợi cho virus tấn công và gây bệnh.
Triệu chứng thủy đậu qua các giai đoạn
Thủy đậu có thể diễn biến qua 3 giai đoạn chính, gồm có: Giai đoạn ủ bệnh, giai đoạn toàn phát và giai đoạn phục hồi.
1. Dấu hiệu thủy đậu giai đoạn ủ bệnh
Giai đoạn ủ bệnh của VZV có thể kéo dài từ 10 – 21 ngày tùy vào tình trạng sức khỏe, khả năng phản ứng của hệ miễn dịch và mức độ tấn công của virus, đa số các trường hợp mắc thủy đậu, thời gian VZV ủ bệnh thường dao động trong khoảng từ 14 – 17 ngày. Ở giai đoạn này, virus bắt đầu nhân lên và di chuyển đến các cơ quan trong cơ thể và hầu như không gây ra bất cứ kiểu chứng nào điển hình.
Trong một số trường hợp, người bệnh có thể xuất hiện các triệu chứng dễ nhầm lẫn với bệnh cảm cúm như cơ thể cảm thấy mệt mỏi, sốt nhẹ từ 38 độ C, đau nhức mình mẩy, chán ăn, nhức đầu,… Các triệu chứng này thường biểu hiện rõ rệt và nặng hơn ở người lớn.
2. Triệu chứng thủy đậu giai đoạn phát bệnh
Sau khi giai đoạn ủ bệnh kết thúc, các dấu hiệu tiền triệu chứng bắt đầu khởi phát. Đầu tiên, các vùng da như lưng, ngực, bụng và mặt sẽ xuất hiện phát ban hơi sưng đỏ nhẹ, nhanh chóng lan ra các vùng da khác trên khắp cơ thể. Những ban đỏ này sẽ dần gồ lên, tiến triển thành dạng dát, sẩn trên da, cảm giác sờ vào hơi sần rát, lộm cộm khó chịu.
Sau vài giờ đến khoảng 01 ngày, tình trạng dát sẩn sẽ diễn tiến nhanh chóng thành các mụn nước, phỏng rộp chứa đầy dịch màu trắng trong. Trong một khoảng thời gian ngắn, những nốt mụn căng tức dịch viêm và dần hóa mủ, với kích thước đường kính khoảng 5 – 10mm, có viền đỏ xung quanh. Sau khi các nốt mụn thoái triển, các tổn thương thường có dạng hình tròn, hơi lõm ở giữa và có lớp vảy tiết phía trên, khi khô sẽ đóng mài và bong vảy, để lại sẹo lõm nông nhẹ khi vết thương lành hoàn toàn.
Những mụn nước phỏng rộp do thủy đậu gây ra không xuất hiện đồng loạt và thoái triển cùng một lúc mà xuất hiện thành nhiều đợt liên tiếp trong suốt 2 – 4 ngày. Do đó, trên mỗi vùng da có thể xuất hiện cùng lúc nhiều giai đoạn của vết thương do thủy đậu từ phát ban, dát, sẩn, mụn nước phỏng rộp, đóng vảy tiết và sẹo lõm.
Không chỉ gây ra các biểu hiện tổn thương ngoài da, các nốt mụn nước còn có thể xuất hiện và gây ra những thương tổn nghiêm trọng ở các vùng niêm mạc hầu họng, giác mạc hoặc thậm chí các vùng sinh dục như dương vật, âm đạo, hậu môn,…
Song song với triệu chứng điển hình là các mụn nước phỏng rộp chứa dịch, ở giai đoạn phát bệnh, người bệnh cũng có thể đối mặt với những biểu hiện tiền triệu tương tự như ở giai đoạn ủ bệnh như sốt, cơ thể suy nhược, mệt mỏi, đau nhức xương cơ, ê ẩm mình mẩy, mất ngủ, chán ăn,…
3. Dấu hiệu của bệnh thủy đậu giai đoạn hồi phục
Sau 7 – 10 ngày từ khi các phát ban bắt đầu xuất hiện, chúng sẽ bắt đầu khô lại, đóng mài và bong vảy, cơ thể người bệnh bắt đầu tiến đến giai đoạn phục hồi.
4. Các triệu chứng của bệnh thủy đậu diễn biến nặng
Sau khoảng 1 tuần, nếu không được điều trị kịp thời và chăm sóc đúng cách, các triệu chứng của bệnh thủy đậu có thể diễn biến nặng, biểu hiện qua các dấu hiệu như:
Các nốt thủy đậu mọc nhiều hơn và dày đặc trên da, có thể xuất hiện ở vùng niêm mạc họng, thanh quản, thủy đậu mọc trong miệng, niêm mạc mắt và vùng kín.
Triệu chứng mệt mỏi, suy kiệt, nhức đầu và đau cơ trở nặng hơn, sốt cao hơn, có thể trên 39 độ C.
5. Nốt thủy đậu bị bội nhiễm có dấu hiệu như thế nào?
Thủy đậu bị bội nhiễm khi vết thương trên da do thủy đậu bị các tác nhân gây bệnh khác ngoài môi trường gây ra tình trạng nhiễm trùng thứ phát với liên cầu khuẩn hoặc tụ cầu vàng. Bội nhiễm là một trong những biến chứng nhiễm trùng ngoài da phổ biến nhất ở những người mắc bệnh thủy đậu không được chăm sóc và vệ sinh da đúng cách, nguy cơ cao nhập viện và thậm chí tử vong.
Khi bị thủy đậu bội nhiễm, các nốt mụn nước có thể xuất hiện dày đặc hơn do sự viêm nhiễm không được kiểm soát tốt, lây lan và gây viêm các vùng da lành xung quanh, đồng thời các vết thương xuất hiện tình trạng mưng mủ, gây ngứa ngáy, đau rát và nhức nhói kéo dài. Tình trạng thủy đậu bội nhiễm có thể gây lở loét da nghiêm trọng, hoại tử, viêm tai nếu mụn nước mọc trong tai, viêm thanh quản nếu mụn nước xuất hiện trong niêm mạc miệng, thậm chí viêm phổi và nhiễm khuẩn huyết, vô cùng nguy hiểm. Sau khi hồi phục, cũng có nguy cơ rất cao để lại sẹo xấu nghiêm trọng.
Bệnh thủy đậu có nguy hiểm không?
Thủy đậu là một căn bệnh có bản chất lành tính, bệnh có thể khỏi và phục hồi nhanh chóng sau 7 – 10 ngày mà không gây ra nhiều vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, thủy đậu có thể biến chứng nghiêm trọng, phải nhập viện và thậm chí tử vong, nếu may mắn vượt qua các biến chứng của bệnh vẫn có nguy cơ rất cao di chứng kéo dài, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và tâm lý người bệnh.
1. Các biến chứng nguy hiểm của thủy đậu
Nhiễm trùng tổn thương thủy đậu: Đây là tình trạng các vùng da thương tổn trở nặng, bị lở loét nghiêm trọng, nguy cơ cao nhiễm trùng phụ với Staphylococcus aureus (vi khuẩn cầu tụ) hoặc Streptococcus pyogenes (liên cầu khuẩn). Theo kết quả nghiên cứu về nhiễm khuẩn huyết do liên cầu khuẩn huyết tán nhóm A và mối liên quan với bệnh thủy đậu của Allan Doctor, MD và cộng sự thực hiện, có đến 50% trường hợp trẻ em mắc bệnh thủy đậu đối mặt với biến chứng thủy đậu bội nhiễm liên cầu khuẩn tan huyết beta nhóm A.
Nhiễm trùng huyết: Là biến chứng rất nguy hiểm, diễn biến rất nhanh chóng của bệnh thủy đậu, khi tác nhân gây bệnh là VZV từ các nốt phỏng rộp thủy đậu lan sang máu, dẫn đến tổn thương mô, suy nội tạng và tử vong nhanh chóng. Theo một nghiên cứu trong giai đoạn 2000 – 2008 tại Đài Loan của Luan -Yin Chang và cộng sự, có đến 1,29% trường hợp mắc bệnh thủy đậu diễn tiến biến chứng nhiễm trùng huyết.
Viêm phổi: Biến chứng này thường xuất hiện ở người lớn vào ngày thứ 3 đến thứ 5 của bệnh, dẫn đến suy hô hấp, phù phổi và gây nguy hiểm đến tính mạng.
Biến chứng thần kinh trung ương: Gây ra tình trạng ức chế điều hòa tiểu não ở mức độ nhẹ, thậm chí diễn tiến viêm não, viêm màng não vô cùng nguy hiểm, đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng. Có khoảng 1/4.000 trường hợp mắc thủy đậu ở trẻ em dưới 15 tuổi có thể xuất hiện biến chứng mất điều hòa tiểu não, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống thần kinh trung ương của trẻ.
Hội chứng Reye: là một biến chứng ảnh hưởng đến chức năng của não và gan, có thể gây sưng tấy ở gan và não cùng triệu chứng co giật, mất ý thức, nguy cơ cao tử vong.
Zona thần kinh: là biến chứng của bệnh thủy đậu do VZV tái phát sau nhiều năm khu trú ẩn trong cơ thể. Người mắc bệnh gặp các cơn đau dữ dội và có thể gây viêm dây thần kinh vận động, suy yếu cơ xung quanh vùng da phát ban. Các triệu chứng khác có thể bao gồm khô mắt, đau tai, ảnh hưởng đến thị lực, gây loét giác mạc, thậm chí mù lòa.
Phụ nữ mang thai mắc bệnh thủy đậu có thể truyền bệnh từ mẹ sang con, gây ra các tác động nghiêm trọng đến thai như dị tật thai nhi, dị tật bẩm sinh hoặc sảy thai, sinh non, thai chết lưu, thậm chí tử vong ở trẻ sơ sinh.
2. Ai có nguy cơ cao mắc các biến chứng của thủy đậu?
Trẻ sơ sinh, thanh thiếu niên, người lớn, phụ nữ mang thai và người bị suy giảm miễn dịch có nguy cơ mắc bệnh nặng hơn và có tỷ lệ biến chứng cao hơn. [2]
Trẻ sơ sinh và trẻ em dưới 5 tuổi: Đây là nhóm nguy cơ cao vì có hệ miễn dịch còn đang trong quá trình phát triển, chưa hoàn thiện, không đủ khả năng chống lại sự tấn công của VZV và sự xâm nhập của các tác nhân gây hại khác bên ngoài môi trường, khiến trẻ dễ mắc các biến chứng của thủy đậu như viêm não, viêm phổi, nhiễm trùng huyết…
Thanh thiếu niên: Đây là nhóm đối tượng rơi vào “khoảng trống miễn dịch” thường bị bỏ quên các mũi tiêm nhắc lại và các loại vắc xin cần tiêm trong độ tuổi.
Người lớn: Người lớn thường mắc bệnh thủy đậu với diễn biến bệnh lý nặng nề hơn và khó phục hồi hơn so với trẻ em, dễ biến chứng, đặc biệt là biến chứng viêm phổi.
Phụ nữ mang thai: Khi mang thai, cơ thể người mẹ bị thay đổi nhiều về sinh lý, hệ miễn dịch bị suy giảm, khả năng đào thải và chống lại sự tấn công của các tác nhân gây bệnh bị suy yếu trầm trọng. Do đó, đây là nhóm đối tượng nguy cơ cao mắc các biến chứng của thủy đậu.
Người bị suy giảm miễn dịch: Những người bị suy giảm miễn dịch do mắc các bệnh mạn tính, đang điều trị bằng hóa trị, xạ trị, đang dùng thuốc ức chế khả năng phản ứng của hệ miễn dịch,… có nguy cơ cao hơn mắc bệnh thủy đậu và biến chứng nghiêm trọng.
Cách phòng ngừa bệnh thủy đậu hiệu quả
Để phòng ngừa bệnh thủy đậu một cách hiệu quả, Bộ Y tế khuyến nghị cộng đồng thực hiện các biện pháp sau:
Tránh tiếp xúc gần với những người đang mắc bệnh thủy đậu để ngăn chặn sự lây nhiễm mầm bệnh từ người bệnh sang người lành, vì thủy đậu có khả năng lây lan vô cùng nhanh chóng thông qua đường hô hấp và qua các tiếp xúc lên dịch viêm trên các vùng da sang thương do thủy đậu gây ra.
Những người mắc bệnh thủy đậu cần nghỉ học hoặc nghỉ làm, chú ý cách ly với cộng đồng, không tiếp xúc với người khác từ 7 – 10 ngày kể từ khi phát hiện những dấu hiệu ban đỏ đầu tiên trên cơ thể để giảm nguy cơ lây nhiễm cho người xung quanh.
Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng và nước sạch, nhất là trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh và tiếp xúc với những vật thể nghi ngờ có chứa mầm bệnh và tuyệt đối không sử dụng chung đồ dùng cá nhân với người khác, đặc biệt là khi không biết rõ ràng về tình trạng sức khỏe của người đó. Chú ý vệ sinh mũi họng hàng ngày bằng nước muối sinh lý để vô khuẩn cho đường hô hấp trên và vùng niêm mạc họng, giúp hỗ trợ giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm virus gây bệnh thủy đậu.
Duy trì thói quen vệ sinh môi trường sống và sinh hoạt cùng các vật dụng thường xuyên tiếp xúc bằng các chất sát khuẩn chuyên dụng ít nhất 2 tuần/lần để giảm nguy cơ lây nhiễm mầm bệnh từ môi trường xung quanh.
Tiêm vắc xin phòng bệnh thủy đậu cho trẻ em từ 9 tháng tuổi (đối với vắc xin Varilrix) hoặc trẻ từ 12 tháng tuổi (đối với vắc xin Varivax và Varicella) và người lớn, phụ nữ mang thai để chủ động kích thích cơ thể sinh miễn dịch đặc hiệu với VZV, ngăn ngừa nguy cơ mắc bệnh thủy đậu hiệu quả lên đến 90%. Nếu chẳng may mắc bệnh, diễn biến bệnh lý cũng nhẹ hơn rất nhiều, xuất hiện rất ít các phát ban và mụn nước thủy đậu, thời gian hồi phục nhanh chóng và hầu như không xảy ra tình trạng biến chứng nguy hiểm.